Nhận diện và phản bác một số quan điểm sai trái, thù địch về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Nhận diện và phản bác một số quan điểm sai trái, thù địch về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
GS, TS LÊ VĂN LỢI
Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng nhằm thực hiện mưu đồ “chuyển hóa” về nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Một trong những nội dung mà các thế lực này xuyên tạc, suy diễn, bôi nhọ nhiều nhất là những vấn đề liên quan đến xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hòng “hướng lái” hệ thống chính trị của nước ta theo hướng phát triển của các nước tư bản chủ nghĩa. Do đó, cần nhận diện rõ luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị để có những luận cứ đấu tranh phản bác xác đáng, thuyết phục.
Nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Các quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tập trung vào những khía cạnh chủ yếu sau:
Một là, xuyên tạc, phủ nhận bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thời gian qua, trên nhiều diễn đàn khác nhau, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc rằng bản chất Nhà nước ta là “độc tài”, “toàn trị” trên cơ sở các luận điệu xuyên tạc, suy diễn, bôi nhọ hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta, như “chế độ một đảng của Việt Nam là trái với nguyên tắc pháp quyền, không thể phát huy được dân chủ mà chỉ mang tính độc tài, áp đặt”(!?); “Trước tình trạng cai trị độc tài, vô hiệu quả của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân không thể chịu đựng được nữa, đang đứng lên để chống đối những sai lầm đó, đứng lên đòi nhân phẩm, nhân quyền, dân chủ. Càng ngày càng có nhiều người đấu tranh, người trước, kẻ sau, càng ngày càng đông”(!?); “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội tức là theo chế độ đảng trị – đảng chủ”(!?) và cáo buộc rằng thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay là “không phù hợp với chuẩn mực quốc tế”, “trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền” hay “Hiến pháp Việt Nam là không chính danh, chỉ là điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam độc tài, toàn trị”(!?)…
Hai là, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, các thế lực thù địch, phản động không ngừng bôi nhọ, bóp méo, xuyên tạc việc thực hiện dân chủ ở nước ta, cho rằng ở Việt Nam không có dân chủ. Các thế lực thù địch còn ra sức xuyên tạc, kích động tư tưởng hoài nghi về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, xuyên tạc công tác bầu cử ở nước ta chỉ là “màn kịch dân chủ” do Đảng Cộng sản đạo diễn. Các thế lực phản động nước ngoài đã câu dẫn, kích động các phần tử cơ hội chính trị trong nước thực hiện chiêu trò “tự ứng cử”, hô hào các hội nhóm dân chủ trên mạng xã hội ủng hộ cho các “nhà dân chủ” hòng gây rối, phá hoại bầu cử; đồng thời, rêu rao Đảng Cộng sản cố tình “cản trở” người ngoài Đảng tự ứng cử. Ngoài ra, chúng còn lan truyền kịch bản “xếp ghế” cho nhân sự Quốc hội trên mạng xã hội, rêu rao rằng bầu cử chỉ là hình thức, quyền lực trong Quốc hội đã được các “phe nhóm” của Đảng “an bài”, “thỏa hiệp”, “phân chia”… Đây hoàn toàn là những luận điệu phản động, xảo trá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Ba là, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cònđưa ra nhiều luận điệu sai trái hòng xuyên tạc, phủ nhận bản chất pháp quyền của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chẳng hạn như “nhà nước pháp quyền là giá trị của các nước tư bản, việc Việt Nam đặt lại vấn đề xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền là có hướng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”(!?)và “chỉ có nhà nước pháp quyền tư sản, không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(!?), từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và cho rằng chế độ dân chủ tư sản như nó đang tồn tại ở phương Tây là chế độ dân chủ cao nhất, là “thiên đường vĩnh hằng”; và “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”, “đa đảng, đa nguyên là thành tố quan trọng nhất để xây dựng nên một quốc gia dân chủ” và “đa đảng sẽ bảo đảm quyền làm chủ đất nước của nhân dân”(!?). Theo đó, những “nhà dân chủ” đòi Việt Nam sửa đổi Hiến pháp năm 2013, sửa đổi thể chế Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình “tam quyền phân lập”.
Qua các luận điệu trơ trẽn đó, có thể thấy rõ mưu đồ của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị là xuyên tạc, phủ nhận sự tồn tại và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, mưu toan “hướng lái” con đường phát triển của Việt Nam theo các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là xây dựng nhà nước theo mô hình của các nước tư bản, thực hiện “tam quyền phân lập”. Đây là âm mưu rất thâm độc hòng chống phá những vấn đề căn cốt của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Luận cứ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Việc các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tìm mọi cách xuyên tạc, suy diễn, bôi nhọ trên cơ sở các luận điệu phi lý, thiếu căn cứ hòng phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là điều không thể chấp nhận, thể hiện thông qua các vấn đề sau:
Một là, dân chủ là xu hướng phát triển tiến bộ của lịch sử loài người, nhưng nó không được quyết định bởi chế độ một đảng hay nhiều đảng mà tùy thuộc vào việc đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của giai cấp nào và hướng đến mục tiêu gì.
Quan điểm một đảng thì mất dân chủ, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ mang tính phiến diện. Thực tiễn cho thấy, đất nước có dân chủ không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đó có bảo vệ quyền và lợi ích cho đa số nhân dân lao động hay chỉ cho một bộ phận thiểu số người trong xã hội đó. Nếu một đảng chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của đảng mình, giai cấp mình thì hoạt động của đảng đó sẽ mang tính cục bộ và khó có thể được các giai tầng khác chấp thuận để trở thành lực lượng lãnh đạo cho toàn xã hội. Ngược lại, nếu một đảng vừa đại diện cho lợi ích của đảng mình, giai cấp mình, vừa đại diện cho lợi ích của toàn xã hội thì chắc chắn đảng đó sẽ được nhân dân tin tưởng, ủy thác làm lãnh đạo xã hội. Điều đó là minh chứng xác thực để khẳng định rằng không phải đa đảng là dân chủ và một đảng là mất dân chủ.
Vấn đề một đảng hay nhiều đảng chính trị một mặt phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mặt khác phụ thuộc tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong các nước tư bản chủ nghĩa, có nhiều đảng chính trị, nhưng chỉ có những đảng của giai cấp tư sản là cầm quyền. Những đảng đó có thể khác nhau về hình thức tổ chức, phương thức hoạt động và những mục tiêu cụ thể, nhưng về bản chất đều đại diện cho các nhóm khác nhau trong giai cấp tư sản và đều có mục tiêu duy trì, phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, của đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền vừa là sự lựa chọn của lịch sử, vừa là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cho quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy, luận điệu cho rằng việc Việt Nam duy trì chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo là mất dân chủ là cố tình lờ đi hoặc không hiểu bản chất chính trị của đảng hoặc cố tình quy chụp một cách thiếu thiện chí cho Việt Nam.
Thực tiễn ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, trình độ dân chủ không tỷ lệ thuận với số lượng đảng phái chính trị. “Điển hình như ở Mỹ hiện nay có khoảng 40 đảng, Hà Lan có 25 đảng, Na Uy có 23 đảng… nhưng chúng ta không thể kết luận rằng ở Mỹ dân chủ hơn ở Hà Lan hay Na Uy”(1). Trên thế giới hiện nay có hơn 30 quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng. Điều đó cho thấy chế độ chính trị do một đảng cầm quyền không phải là điều chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản lãnh đạo và không phải các nước theo chế độ một đảng không bảo đảm dân chủ. Vì thế, Việt Nam lựa chọn chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền cũng không phải là cá biệt, đi ngược lại xu thế chung của nhân loại như các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn rêu rao và cáo buộc!
Hai là, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, hoàn thiện. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt mục tiêu mang lại độc lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, giúp nhân dân có quyền làm chủ thực sự. Do đó, khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao mục tiêu xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân với phương châm “Bao nhiêu lợi ích đều vì nhân dân”.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để xây dựng một nền dân chủ thực sự, được thực hiện trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…, thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ gắn liền với kỷ cương, kỷ luật và được thể chế hóa bằng pháp luật, bảo đảm bằng pháp luật.
Quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện đậm nét trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống, ở mỗi cấp, trên tất cả lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(2). Như vậy, không thể tùy tiện quy chụp rằng Việt Nam không chú trọng đến dân chủ hoặc mất dân chủ bởi điều đó phản ánh không đúng bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(3).
Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, Đại hội XIII của Đảng đã tiến hành điều chỉnh, bổ sung một số điểm mới về tư duy xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân được thực thi trên thực tế. Đồng thời, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt” để nhân dân làm chủ. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng trên cơ sở tổng kết lý luận, thực tiễn đã bổ sung, phát triển tư duy về phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những bổ sung, phát triển ấy một lần nữa khẳng định, mặc dù, trong mỗi giai đoạn lịch sử có những thay đổi về mô hình bộ máy nhà nước, nhưng sợi chỉ đỏ xuyên suốt chính là nhận thức và hành động nhất quán về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong điều kiện mới.
Ba là, mô hình “tam quyền phân lập” có thể phù hợp ở các mức độ khác nhau với một số nước trên thế giới, nhưng không phù hợp với điều kiện và thể chế chính trị của Việt Nam. Việt Nam lựa chọn cách thức tổ chức quyền lực là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, không “tam quyền phân lập” mà kiên định nguyên tắc “quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(4) và “thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”(5). Đây là sự lựa chọn phù hợp với bối cảnh Việt Nam cũng như xu thế khách quan của thời đại, đúc rút từ thực tiễn hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới cũng như việc học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của các nước trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Chúng ta không phủ nhận những giá trị phổ quát của nhà nước pháp quyền, đó là tinh hoa trí tuệ nhân loại, mang tính quy luật, chứ không phải sản phẩm riêng có, độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, chưa có tiền lệ, đòi hỏi có sự nhận thức lý luận khoa học, sự vận dụng sáng tạo, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo các giá trị phổ quát về nhà nước pháp quyền, song cũng gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nhà nước vô sản ở Việt Nam. Quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đánh dấu một bước tiến trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta thời kỳ đổi mới.
Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ sự khác biệt về chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản. Đó là: “pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(13). Do đó, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Như vậy, không thể lập luận rằng “xây dựng Nhà nước pháp quyền là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”, không thể xuyên tạc ở Việt Nam “chỉ có đảng trị, không có pháp quyền”… Mô hình nhà nước “tam quyền phân lập” cũng không phải là khuôn mẫu, tiến bộ về tự do, dân chủ, nhân quyền. Đây là luận điệu hết sức nguy hiểm bởi khi đưa ra luận điệu này, các đối tượng nhằm cố tình xuyên tạc, phủ nhận thể chế chính trị của Việt Nam cũng như phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; ca ngợi, cổ xúy và thúc đẩy mô hình nhà nước “tam quyền phân lập”, ca ngợi cái gọi là giá trị “tự do, dân chủ, nhân quyền” phương Tây; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ, thể chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Mặt khác, việc tung ra luận điệu trên hòng làm méo mó bản chất, tính ưu việt của chế độ xã hội, làm giảm uy tín, vị thế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, không thể coi thường hoặc xem nhẹ các luận điệu sai trái đó.
Có thể khẳng định, các quan điểm sai trái, thù địch về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là rất nguy hiểm vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Do đó, cần nhận diện rõ các quan điểm này và có luận cứ đấu tranh xác đáng, thuyết phục để củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời, nâng cao nhận thức, bồi đắp niềm tin của nhân dân vào Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng./.
———————
(1) Vũ Văn Hiền (Chủ biên): Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 143
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011 tr. 84 – 85
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 174 – 175
(4) Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(5) Khoản 1, Điều 8, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(6) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 29
Nhận xét
Đăng nhận xét