Vận dụng tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong đối ngoại quốc phòng hiện nay
Vận dụng tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong đối ngoại quốc phòng hiện nay
Đối ngoại quốc phòng là bộ phận quan trọng trong đường lối đối ngoại của Đảng, của nền ngoại giao Việt Nam. Trải qua chặng đường hơn 35 năm đổi mới, cùng với hoạt động đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, đối ngoại quốc phòng không ngừng phát triển sâu rộng cả về phạm vi và mức độ hợp tác, vừa góp phần khẳng định uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, vừa toát lên nét đặc sắc, độc đáo của đối ngoại quốc phòng thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.
Trên cơ sở kế thừa, phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” – “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”. Triết lý ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam, đó là: “Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”(1).
Đối ngoại quốc phòng nằm trong tổng thể hoạt động, biện pháp hòa bình nhằm thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, chính sách quốc phòng trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương, công tác đối ngoại quốc phòng được triển khai chủ động, linh hoạt, hiệu quả, góp phần làm sâu sắc thêm các mối quan hệ, bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc; đóng góp vào giải quyết các vấn đề phát triển, hòa bình và an ninh quốc tế; tiếp tục khẳng định đối ngoại quốc phòng là một trong những phương thức quan trọng để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, bằng biện pháp hòa bình, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế; nâng cao tiềm lực quốc phòng của đất nước.
ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG MANG ĐẬM BẢN SẮC NGOẠI GIAO “CÂY TRE VIỆT NAM”
Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ví ngoại giao Việt Nam là “ngoại giao cây tre”: “… hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”(2). Bởi, hình tượng cao đẹp của cây tre luôn gắn bó với con người, làng quê, cũng như gắn chặt với truyền thống dân tộc, đặc biệt là bản sắc nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá cao vai trò của quân đội trong công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, khẳng định lĩnh vực này đã trở thành một trong những trụ cột đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Trải qua các giai đoạn cách mạng, ngoại giao Việt Nam đã đạt thành quả đáng tự hào, bất chấp những thay đổi của thời cuộc. Từ một nước bị bao vây, cấm vận sau chiến tranh, hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có quan hệ đối tác hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện là Lào, Campuchia và Cuba; 6 nước “đối tác chiến lược toàn diện” là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản; 18 nước “đối tác chiến lược” và 12 nước “đối tác toàn diện”.
Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia, thường xuyên tham gia tích cực các diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Hoạt động đối ngoại của Chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội được đẩy mạnh, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức hữu nghị của nhân dân cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới.
Trong những thành tựu đó, có sự đóng góp không nhỏ của đối ngoại quốc phòng mang đậm bản sắc “ngoại giao cây tre”:
Một là, đối ngoại quốc phòng “mềm mại, khôn khéo, nhưng kiên cường, quyết liệt”. Sự mềm mại, khôn khéo thể hiện ở chỗ, đối ngoại quốc phòng làm sâu sắc thêm quan hệ với các nước láng giềng, cân bằng quan hệ với các nước lớn và giữ vững quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; chủ động tham gia các diễn đàn quân sự, quốc phòng đa phương; phối hợp, tổ chức giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam và quân đội Việt Nam trên trường quốc tế, nhất là trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Đối ngoại quốc phòng đã tạo điều kiện cho Quân đội nhân dân Việt Nam “thiết lập quan hệ quốc phòng với quân đội hơn 100 nước, trong đó có 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc”(3), 3 tổ chức vũ trang quốc tế của Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức Thủy văn quốc tế (IHO). Về cơ bản, Việt Nam đã thiết lập quan hệ quốc phòng với tất cả đối tác chủ chốt của mình. Đến nay, đã có 31 nước đặt Phòng Tùy viên quốc phòng thường trú tại Việt Nam và 20 nước kiêm nhiệm; Việt Nam đặt Phòng Tùy viên quốc phòng tại 32 nước, Liên hợp quốc và EU.
Trên bình diện đa phương, đối ngoại quốc phòng Việt Nam phát triển ngày càng sâu rộng. Bộ Quốc phòng đã chủ động tham gia tích cực hầu hết cơ chế, diễn đàn quốc tế, khu vực, như Cơ chế hợp tác quốc phòng quân sự khuôn khổ ASEAN, ASEAN và các đối tác, nổi lên là Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+); hợp tác quốc phòng, an ninh với EU được thúc đẩy nhiều mặt, như ký kết Hiệp định khung giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam với EU về tham gia hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (năm 2019); cử lực lượng gìn giữ hòa bình tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại châu Phi, với hàng trăm lượt sĩ quan, cán bộ, nhân viên y tế trong đội hình Bệnh viện dã chiến cấp 2 tại phái bộ Nam Xu-đăng; kỹ sư, chuyên gia máy, thợ xây trong Đội công binh số 1 tham gia phái bộ UNISFA, ABYEI. Tháng 2-2023, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã cử 76 quân nhân tham gia cứu hộ, cứu nạn sau thảm họa động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ
Đối ngoại quốc phòng mềm mại, khôn khéo bởi chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ. Song, đối ngoại quốc phòng luôn kiên quyết, kiên trì giải quyết các bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; chủ động, quyết liệt ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Việt Nam nhất quán và kiên quyết thực hiện nguyên tắc “bốn không”, đó là: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Việc kiên định, quyết liệt thực hiện nguyên tắc “bốn không” trong đối ngoại quốc phòng, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong duy trì và giữ gìn môi trường hòa bình; đồng thời, là đóng góp tích cực của Việt Nam vào hòa bình, ổn định chung của khu vực và trên thế giới, được các nước tin tưởng, đánh giá cao. Qua đó, khẳng định vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam nói chung, của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế.
Hai là, đối ngoại quốc phòng linh hoạt, sáng tạo, nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…”(4). Đây là luận điểm hết sức quan trọng, định hướng cho đối ngoại quốc phòng và đã được quán triệt sâu sắc, thực hiện hiệu quả trong thời gian qua.
Kiên quyết, kiên trì trở thành bài học kinh nghiệm giữ nước quý báu của đối ngoại quốc phòng. Đứng trước tình hình thế giới, khu vực liên tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là biên giới, biển, đảo vẫn đang đặt ra những thách thức mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, đối ngoại quốc phòng đã góp phần quan trọng “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”(5).
Đối ngoại quốc phòng Việt Nam đã liên tục mở rộng, phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, trên nhiều bình diện; cơ chế hợp tác ngày càng thực chất và hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, như trao đổi đoàn, ngoại giao biên giới, trao đổi học thuật, đào tạo, hợp tác tình báo, hợp tác công nghiệp quốc phòng, hội thi, hội thao quân sự; phòng, chống và khắc phục hậu quả chiến tranh, thảm họa của an ninh phi truyền thống, biến đổi môi trường, thiên tai; tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình, hợp tác quân – binh chủng, ký kết các điều ước, thỏa thuận hợp tác quốc phòng với các đối tác song phương và đa phương… được các đối tác quốc phòng, cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, đồng tình, ủng hộ, góp phần khẳng định vị thế, uy tín của Quân đội nhân dân nói riêng, đất nước Việt Nam nói chung trên trường quốc tế.
Đặc biệt, những thành tựu đó đã khẳng định, đối ngoại quốc phòng góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; là một bộ phận quan trọng của đối ngoại quốc gia, một trụ cột quan trọng của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, góp phần vào việc xây dựng lòng tin giữa Việt Nam và các nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ đất nước “từ sớm, từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước trong mọi tình huống.
Ba là, đối ngoại quốc phòng thể hiện tinh thần “biết thời, biết thế, biết mình, biết người, biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt””. Sự nhất quán trong chủ trương, mục tiêu hợp tác, đối ngoại quốc phòng được thể hiện minh bạch trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam (năm 2004) xác định chủ trương đối ngoại quốc phòng là: “thiết lập và phát triển quan hệ giao lưu, hợp tác trên cơ sở bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau với lực lượng vũ trang các nước khác”(6). Tiếp nối tư duy đó, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam (năm 2019) nhấn mạnh: “Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước” và “sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển”(7). Tuy nhiên, “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào”(8) và “Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia”(9).
Với phương châm “biết thời, biết thế; biết mình, biết người” và mong muốn “thêm bạn, bớt thù”, Việt Nam chủ trương tăng cường hợp tác quốc phòng song phương và đa phương với các nước, tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, sẵn sàng tham gia giải quyết những thách thức an ninh chung trên cơ sở tôn trọng, tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Đối ngoại quốc phòng Việt Nam luôn nhất quán: “Việt Nam xem xét tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng, an ninh đa phương và cơ quan pháp lý quốc tế khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia”(10).
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO “CÂY TRE VIỆT NAM”, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG HIỆN NAY
Thời gian tới, môi trường chính trị, an ninh thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất ổn; sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đứng trước nhiều cơ hội mới cũng như không ít khó khăn, thử thách, đặt ra những yêu cầu mới, ngày càng cao đối với đối ngoại quốc phòng. Các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược, cạnh tranh quyết liệt. Xung đột vũ trang, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, tiếp tục diễn ra gay gắt, tác động nhiều mặt đến các quốc gia… Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức; các thế lực thù địch, phản động chưa từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam; các vấn đề an ninh phi truyền thống, như thảm họa thiên tai, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh mạng, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố,… đang đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam, trong đó có quốc phòng, đòi hỏi tăng cường hợp tác quốc tế mới có thể giải quyết.
Để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại: Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, tinh nhuệ, hiện đại(11), đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đối ngoại quốc phòng cần thấm nhuần và phát huy phương pháp ngoại giao cây tre, nắm vững nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến”; luôn “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp” vì lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, chú trọng một số nội dung sau:
Thứ nhất, giữ vững nguyên tắc “dĩ bất biến” của ngoại giao “cây tre Việt Nam”, đối ngoại quốc phòng luôn đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và điều hành của Chính phủ, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đối với công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới.
Triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại được xác định tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám khóa XIII “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị khóa XI Về “Hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo” và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; kiên trì chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh; gắn đối ngoại quốc phòng với chiến lược tổng thể của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa của các lực lượng nhằm đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam; tăng cường củng cố thế trận quốc phòng Việt Nam trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, kiên định chính sách quốc phòng “bốn không”; đồng thời, tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, “Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp”(12).
Thứ hai, đối ngoại quốc phòng cần đổi mới tư duy, mạnh dạn đột phá, sáng tạo, tìm ra cách làm mới, tìm kiếm hướng đi mới, “ứng vạn biến” trong môi trường quốc tế nhiều biến động.
Bên cạnh việc tuân thủ và vận dụng sáng tạo các cam kết quốc tế và luật pháp Việt Nam, phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại quốc gia, đối ngoại quốc phòng cần xác lập quan điểm: Chủ động, linh hoạt, sáng tạo tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Đây là tư duy mới, đột phá mới của đối ngoại quốc phòng Việt Nam dựa trên cơ sở tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước có được trong công cuộc đổi mới vừa qua và những dự báo về sức mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới. Hơn nữa, quan điểm này còn thể hiện bên cạnh việc tuân thủ những nguyên tắc cơ bản, việc xác lập, nắm vững và đề cao tinh thần chủ động của mỗi ngành, lĩnh vực trong hoạt động nói chung, trong đối ngoại nói riêng là nhân tố quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của quốc gia và ngành, lĩnh vực đã định ra trong thời kỳ mới. Theo đó, bên cạnh việc kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo những phương châm cơ bản đã có, đối ngoại quốc phòng cần có tư duy mới, phương châm mới, như “coi trọng thiết thực, hiệu quả trong hợp tác”, “lựa chọn đối tác, ưu tiên hợp tác”, “mạnh dạn đấu tranh ngăn ngừa, giảm thiểu mặt đối tượng”. Như Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám khóa XIII “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: “Nỗ lực thúc đẩy hợp tác, giảm bất đồng, xung đột để đạt lợi ích cao nhất trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới”(13)… Đây là những phương châm chỉ đạo thiết thực nhằm tận dụng thời cơ, lợi thế mà Việt Nam và quốc phòng Việt Nam đang có được để đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong thời gian tới; đồng thời, hóa giải các nguy cơ, sức ép buộc Việt Nam “chọn phe” từ phía các đối tác, nhất là các nước lớn trong thời gian gần đây.
Thứ ba, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược của đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới.
Trước những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực, các cơ quan chức năng cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đẩy mạnh công tác nghiên cứu, nắm bắt, dự báo, đánh giá chính xác tình hình, nhất là những động thái, điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại của các nước lớn. Tập trung nghiên cứu, đánh giá, nhận diện rõ ý định, mục đích, bản chất việc điều chỉnh chiến lược, hoạt động đối ngoại của các nước lớn, các nước trong khu vực; phân tích toàn diện, sâu sắc, nhiều chiều, làm rõ thuận lợi, khó khăn, những tác động tích cực, tiêu cực đến hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, cũng như nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Trong đó, hết sức coi trọng công tác dự báo những nguy cơ tiềm ẩn, yếu tố gây bất ổn, thái độ, hành vi, hành động bất thường trong quan hệ, ứng xử của các nước đe dọa trực tiếp đến nền hòa bình, ổn định của khu vực và đất nước. Trên cơ sở đó, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu với Đảng, Nhà nước các chủ trương, đối sách, giải pháp giải quyết các vấn đề quốc phòng, an ninh, nhất là các vấn đề nhạy cảm, phức tạp, bảo đảm đúng, trúng, kịp thời, hiệu quả, đạt được cả mục đích trước mắt và lâu dài, không để bị động, bất ngờ về chiến lược và không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng chống phá.
Thứ tư, vận dụng tư tưởng “cành uyển chuyển” của ngoại giao “cây tre Việt Nam”, nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng song phương, đưa quan hệ hợp tác với các nước đi vào chiều sâu và thực chất.
Thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng song phương, củng cố tin cậy chính trị với các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tuân thủ luật pháp quốc tế. Trong quá trình triển khai, cần kiên định với những vấn đề mang tính nguyên tắc, nhưng uyển chuyển, khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử; xác định rõ “đối tác”, “đối tượng” để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc hoặc rơi vào thế phải “chọn bên”. Tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin chiến lược, hiểu biết lẫn nhau, “thêm bạn, bớt thù”; kiên trì giải quyết các bất đồng và xung đột bằng các biện pháp hòa bình, trên tinh thần tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Đa dạng hóa các hình thức, nội dung đối ngoại quốc phòng; triển khai hiệu quả các nội dung hợp tác đã ký kết, tập trung thúc đẩy các cơ chế tham vấn, đối thoại, hợp tác quân binh chủng, đào tạo, công nghiệp quốc phòng, quân y, cứu hộ – cứu nạn, giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, khắc phục hậu quả chiến tranh và gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc…, phù hợp với thế mạnh của từng đối tác và nhu cầu của Việt Nam.
Với vai trò ngày càng tăng của hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng trước diễn biến của thời cuộc, Quân đội nhân dân Việt Nam cần xác định rõ, hoàn thành tốt trọng trách của đội quân “đối ngoại”, đội quân “quốc tế” bên cạnh chức năng cơ bản là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, góp phần vào sự ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới./.
TS. NGUYỄN VĂN KỶ
Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
Nhận xét
Đăng nhận xét