Hiểu cho đúng chính danh, định phận; đừng cả giận phán bừa
Hiểu cho đúng chính danh, định phận; đừng cả giận phán bừa
Hiểu cho đúng chính danh, định phận; đừng cả giận phán bừa
Dương Phương Duy
Đừng cả giận phán bừa
Gần đây, trên không gian mạng lại rộ lên vấn đề về tính chính danh, chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam với những giọng điệu hết sức ngang ngạnh và phản động. Những người có quan điểm đối lập với Đảng ta cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam đã nặn ra thứ lý luận về chính danh để tự bào chữa cho những sai lầm, khuyết điểm và sự non kém của mình”. Hơn thế, có người còn cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có công cán gì”, đã “cướp chính quyền từ tay chính phủ Đế quốc Việt Nam do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng”.
Điều nhảm nhí hơn là một số người đã trắng trọn vu cáo: “Đảng Cộng sản Việt Nam có tội với nhân dân vì đã gây ra hai cuộc chiến tranh đẫm máu, làm chết hơn hai triệu người dân”, “Ở Việt Nam, chiến tranh là không cần thiết vì các quốc gia trong khu vực không phải trải qua các cuộc chiến tranh đẫm máu chống thực dân, đế quốc mà vẫn được trao trả độc lập, tự do; được quyết định con đường phát triển”.
Vì vậy, những người này quy kết rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải rút lui khỏi chính trường vì không có cơ sở pháp lý để tồn tại, không có giấy phép hoạt động, cũng như không được quy định trong luật”. Rồi họ kết luận: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng trị, toàn trị, độc quyền”, “nghị quyết của Đảng ngồi trên Hiến pháp”, v.v.. Những giọng điệu lạc lõng nêu trên là hết sức phi lý, không chấp nhận, cần phải vạch trần sự giả dối, xuyên tạc trắng trợn ấy.
Đảng Cộng sản Việt Nam không bịa ra thuyết chính danh
Đảng Cộng sản Việt Nam không bịa ra thuyết chính danh để “hù dọa nhân dân” và cho rằng đó là lý luận của riêng mình. Cũng như việc kế thừa những tinh hoa trí tuệ của nhân loại và dân tộc, Đảng ta đã gạn lọc, tiếp nhận những gì là tinh túy nhất từ những tư tưởng tiến bộ của các bậc tiền bối để bảo vệ tính chính danh, chính đáng của mình.
Ở Việt Nam, nhiều người biết: Chính danh là một thuật ngữ triết học chính trị, ra đời từ rất sớm gắn liền với sự ra đời và phát triển của các giai cấp, nhà nước; các trào lưu và các môn phái chính trị, nhằm chỉ những “hành vi tích cực” làm cho mọi việc ngay thẳng, có nền nếp, chính đáng; từ đó làm cho “danh” và “thực” phù hợp với nhau.
Chính danh đi liền với định phận, phản ánh sự tương xứng, phù hợp của quyền lực với địa vị, bổn phận chính đáng của người nắm giữ quyền lực. Về điều này, Khổng Từ (551-479 TCN), nhà triết học Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc đã xây dựng nên thuyết chính danh để nói rõ mục đích: Làm cho các bậc quân tử có đạo chính danh và thực thi đạo ấy một cách hiệu lực, hiệu quả; tức là giữ vững tôn ty trật tự, ngôi thứ, phẩm hàm và quyền lực; có như vậy “vua mới phải đạo vua, tôi mới phải đạo tôi, cha mới phải đạo cha, con mới phải đạo con”. Trái với điều ấy, nghĩa là “danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc làm không thành, việc làm không thành thì lễ nhạc không hưng thịnh, lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không nghiêm, hình phạt không nghiêm thì dân biết đặt tay làm, chân đứng vào đâu được”.
Điều ấy chiếm vị trí trung tâm học thuyết chính trị của Khổng Tử; có nghĩa là trong thuyết chính danh có những “hạt nhân hợp lý”, “một số điểm tích cực” cần khai thác, bởi vì nó là “một công cụ cần thiết để thiết lập trật tự xã hội” có nền nếp, ổn định trên cơ sở sự phân định các danh vị, tước hàm hợp lý để chống lại sự hỗn loạn của thứ đạo đức và chính trị đi ngược lại “đạo trời, đạo người” cũng như việc tiếm quyền vô nguyên tắc, sinh ra loạn lạc và chiến tranh. Nhờ đó, làm cho chính trị kết hợp chặt chẽ với đạo đức để thực hiện các điều “nhân trị, đức trị và lễ trị”; làm cho các bậc quân tử có “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”; và cái “danh”, cái “thực” thống nhất với nhau; mọi người trong xã hội ai có chức danh gì thì phải xứng đáng với danh phận, chức vụ, bổn phận mà mình vốn có, được xã hội phân công đảm nhiệm.
Là một đảng cách mạng, tự nguyện đấu tranh, giành lại độc lập dân tộc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân; không có gì có thể cản trở Đảng ta kế thừa, tiếp thu những tinh hoa tư tưởng của phương Đông và phương Tây để phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; kháng chiến, kiến quốc. Ai đó chỉ vì ý riêng mà vu cáo, buộc tội vô căn cứ, cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam tự bịa đặt ra học thuyết chính danh để biện hộ cho sai lầm, sự nom kém của mình là điều hết sức vô lý, cần vạch mặt sự sai trái và kiên quyết bác bỏ.
Tính hợp lý, hợp pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm chín muồi của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh chống “thù trong, giặc ngoài”, Đảng đã lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; Đảng tự nguyện chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều đó thì ai cũng biết rõ. Vì thế, Đảng và nhiều cán bộ, đảng viên của Đảng đã bị kẻ thù bủa vây, bắt bớ, đàn áp dã man, bị các đảng phái khác chèn ép, tranh giành sự ảnh hưởng. Hơn thế, Đảng bị thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ vây ráp, khủng bố trắng, hàng vạn cán bộ, đảng viên của Đảng bị tù đầy, chém giết, hàng vạn đồng chí, đồng bào đứng ra bảo vệ Đảng đã bị bắt bớ, tù đầy; cứ nhìn vào “địa ngục trần gian” ở Côn Đảo, ở Hảo Lò và nhiều nơi khác sẽ rõ.
Quá trình lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng đã trải qua mọi thử thách khắc nghiệt và đã được thực tiễn đấu tranh cách mạng sàng lọc, lựa chọn và đào thải của lịch sử và của nhân dân nên Đảng xứng đáng là một đảng đứng mũi chịu sào, gánh vác sứ mệnh lịch sử, dẫn dắt dân tộc thực thi trọng trách “cứu nước, cứu nhà”, được nhân dân giao phó và ủy thác. Đảng đã trở thành một đảng cầm quyền, lãnh đạo chân chính. Điều đó ai cũng đều thấy rõ, cớ sao người ta nỡ bóp méo sự thật, vu khống “Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có công cán gì”.
Nhìn lại ngày Đảng mới ra đời, qua mấy lần diễn tập; Đảng đủ sức lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thử hỏi lúc đó lực lượng chính trị nào ở Việt Nam đủ tâm, tầm, tuệ để đứng ra đảm đương trọng trách lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh chống thực dân Pháp và phát xít Nhật để giải phóng dân tộc? Thực tế khẳng định rằng, lúc bấy giờ và bây giờ cũng vậy, không một ai, một tổ chức nào có đủ tầm nhìn, bản lĩnh chính trị và trí tuệ để gánh vác trọng trách ấy và tự khẳng định địa vị lịch sử của mình một cách tự nhiên và có địa vị pháp lý, hợp pháp như Đảng ta. Đó là một cách tất yếu khách quan, không thể chối cãi. Rõ ràng, sự quyết định hết thảy và khẳng định địa vị cầm quyền của Đảng ta là do chính phẩm chất và năng lực cầm quyền, lãnh đạo của Đảng tạo nên cũng như uy tín cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam suốt hơn 93 năm qua khẳng định.
Vì lẽ đó, Đảng trở thành đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nhờ đó, Đảng được nhân dân tín nhiệm, gọi với những cái tên trìu mến “Đảng ta”, “Đảng của chúng ta”, “Đảng của dân tộc chúng ta”… Đó là lẽ phải, là đạo lý Việt Nam. Hỡi ai đó đừng vì “mắt nhắm mắt mở” mà nhìn sai lệch hiện thực; đừng vì thâm thù cá nhân mà xuyên tạc bản chất sự việc, nói phải thành trái, thật thành giả, đúng thành sai.
Sự thật lịch sử cách mạng Việt Nam khẳng định: Đảng ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam là chính danh, chính nghĩa; là chính đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam hợp lòng dân, được nhân dân tín nhiệm, tin theo. Sự thành công của cách mạng Việt Nam hơn 93 năm qua đã khẳng định ý nghĩa đặc biệt của chân lý ấy.
Sứ mệnh lịch sử vĩ đại không ai có thể làm thay
Kết quả cầm quyền, lãnh đạo của Đảng khẳng định một mô hình CNXH phù hợp với Việt Nam, đã được thử nghiệm thành công; không đi theo vết xe đổ của một số đảng khác. Điều đó bác bỏ quan điểm sai trái cho rằng “đảng cướp chính quyền từ tay chính phủ Đế quốc Việt Nam do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng” để ngồi lên trên ghế lãnh đạo. Đây cũng là minh chứng sinh động để phản bác quan điểm sai trái, cho rằng Đảng “từ trên trời rơi xuống hưởng lợi”, “ngồi mát ăn bát vàng”. Tiến trình và thành công của cách mạng Việt Nam đã bác bỏ quan điểm sai trái ấy.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành công và chính điều đó đã làm cho các thế lực thù địch căm ghét đến tận xương tủy, nuôi ý chí phục thù nên đã và đang tìm mọi cách chống phá Đảng ta. Vì thế, nhu cầu của đấu tranh cách mạng đã khẳng định tính tất yếu cầm quyền của Đảng, tính chính danh, chính pháp và tư cách cầm quyền, lãnh đạo của Đảng; không thế lực nào có thể làm thay sứ mệnh ấy.
Nhìn lại lịch sử cách mạng Việt Nam thì thấy rõ nhận định ấy là hoàn toàn đúng. Bởi lẽ, sau khi Nhật hất cảng Pháp nhảy vào Đông Dương, vua Bảo Đại công bố Tuyên cáo độc lập với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Bản Tuyên cáo này do Nhật trao cho vua Bảo Đại. Vì thế, Đế quốc Việt Nam đặt dưới sự cai trị của phát xít Nhật. Rõ ràng, cái gọi là Đế quốc Việt Nam của Bảo Đại thực chất là thuộc địa của Nhật. Việc Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành lại độc lập dân tộc từ tay kẻ cướp nước và bán nước là việc làm chính nghĩa, chính danh, cớ sao lại có người bịa đặt, vu khống rằng, “Đảng cướp chính quyền”, “Đảng nhờ vua Bảo Đại bày cỗ sẵn mà thành công”. Luận điệu này hết sức phi lý, không ai chấp nhận.
Theo lẽ thông thường mà mọi người đều biết “cuộc cách mạng nào cũng đều phải đổ máu”. Dù không hoàn toàn đúng nhưng liên hệ với những trường hợp cụ thể, có mặt đúng sự thật! Việc ai đó cho rằng, Việt Nam không cần chiến tranh cũng được trao lại quyền độc lập dân tộc chỉ là chiêu trò lừa bịp, mỵ dân; lịch sử không bao giờ có chuyện ấy đâu. Thực tế lịch sử nhân loại đã chứng minh: không có quốc gia, dân tộc nào giành được độc lập mà lại không phải dùng bạo lực, không phải đổ máu hy sinh và phải trả giá cho hòa bình. Hơn nữa, chẳng có kẻ cướp nào “tốt bụng” đến mức tự nguyện trao lại chính quyền và lợi ích cho kẻ khác.
Việc Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, rồi sau đó giành chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và đại thắng mùa Xuân 1975 đã nói lên sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta đã bằng xương máu, trí tuệ và bản lĩnh của mình mà làm nên chiến thắng; làm gì có chuyện hoang đường: “ngồi mát ăn bát vàng” hoặc “không cần chiến tranh vẫn có độc lập”.
Hãy nhìn lại lịch sử dân tộc ta suốt 21 năm dòng kiên cường đấu tranh mới “đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào”, làm gì có chuyện đế quốc Mỹ “tốt bụng” nên đã tự nguyện trao trả độc lập, tự do cho Việt Nam. Trước sau như một, nhân dân Việt Nam quyết không chấp nhận Tổ quốc bị quân xâm lược giày xéo; tổ tiên bị xới đào, bị xúc phạm. Đấu tranh để bảo vệ mình, khẳng định quyền sống làm người chân chính là việc làm hoàn toàn chính đáng; Đảng đã thực hiện đúng chức trách, phận sự và sứ mệnh lịch sử và nhân dân ủy thác, giao cho. Tất cả điều đó bảo đảm tính hợp lý, hợp pháp về cầm quyền, lãnh đạo của Đảng ta. Không bao giờ có chuyện Đảng phải xin phép quân xâm lược bố thí, ban cho độc lập dân tộc, nếu không đủ trí tuệ, bản lĩnh, không có tính chính danh, chính đáng thì làm sao Đảng tập hợp, quy tụ, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để khẳng định quyền sống của mình và của cả một dân tộc.
Tất cả điều đó đã được hiến định trong Hiến pháp năm 1960, 1980, 1992 và 2013, rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đó là cơ sở pháp lý chính đáng. Hơn thế, việc đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, mang lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân còn có ý nghĩa to lớn gấp nhiều lần so với những “quy định trên giấy”.
Nhìn lại lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta đều rõ việc một số đảng phái tự nguyện rút lui khỏi vũ đài chính trị, chỉ còn lại Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đứng vững trên chính trường, gánh vác sứ mệnh lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng “thù trong, giặc ngoài”, làm nên sự nghiệp vĩ đại này. Đó là sự lựa chọn của lịch sử, sự tín nhiệm của cả một dân tộc. Ai đó cho rằng Đảng ta không hợp pháp, hợp hiến là sự vu khống trắng trợn, đáng phê phán, phải bác bỏ.
Không phụ lòng tin của nhân dân
Bởi vì, tất cả các đồng chí lãnh đạo của Đảng đã và đang giữ các chức vụ trong Nhà nước Việt Nam đều do nhân dân bầu nên bằng các nguyên tắc phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Trước khi được Quốc hội thông qua, tất cả các bản dự thảo Hiến pháp đều được lấy ý kiến góp ý của quảng đại quần chúng nhân dân. Vì thế, Hiến pháp thể hiện rõ ý nguyện, bản lĩnh, trí tuệ và trách nhiệm của nhân dân.
Điều đó khẳng định rõ rằng, Đảng ta lãnh đạo Nhà nước và xã hội đúng theo Hiến pháp đã hiến định nhưng không đứng trên Hiến pháp và pháp luật như ai đó đã phán bừa, rằng “đảng toàn trị”, “độc quyền” rồi khuyến nghị “Đảng cần phải rút lui khỏi chính trường”; “thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập kiểu phương Tây”; làm cho Việt Nam “có dân chủ”. Hỡi ai còn băn khoăn về điều ấy, hãy đọc cho kỹ lịch sử dân tộc Việt Nam, hiểu cho đúng ý nghĩa của chính danh, định phận; đừng cả giận phán bừa./.
Nhận xét
Đăng nhận xét