Bản chất của chủ nghĩa tư bản trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Bản chất của chủ nghĩa tư bản trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, khi nói về bản chất của chủ nghĩa xã hội và lí do tại sao Việt Nam lại lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã so sánh với chủ nghĩa tư bản. Qua đó, cuốn sách của Tổng Bí thư đã đánh giá rất toàn diện, sâu sắc về chủ nghĩa tư bản.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa tư bản. Tổng Bí thư cho rằng, chế độ tư bản chủ nghĩa là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại, đồng thời khẳng định: “Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học-công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước”[1].
Trong cuốn sách của mình, Tổng Bí thư không chỉ khẳng định vai trò rất quan trọng của chủ nghĩa tư bản trong việc phát triển nhanh lực lượng sản xuất mà trong một chừng mực nhất định chủ nghĩa tư bản đã góp phần giải phóng con người với chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn nhiều so với tất cả các chế độ xã hội trước đó. Tuy nhiên, Tổng Bí thư cũng khẳng định những phúc lợi xã hội đối với người lao động mà chủ nghĩa tư bản đang thực hiện không phải là mục đích tự thân của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà trên cơ sở trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao và là kết quả đấu tranh kiên trì, bền bỉ qua rất nhiều năm của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước tư bản phát triển.
Bên cạnh việc thừa nhận những giá trị của chủ nghĩa tư bản, nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư khẳng định do đặc trưng nội tại vốn có của chính phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên đây là một mô hình phát triển không bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái: “Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó”[2]. Bởi lẽ, “Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế – xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa”[3].
Mục đích của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản nên nhà tư bản có xu hướng hạn chế tiền công của người công nhân, trả tiền công cho người công nhân thấp hơn so với số hàng hóa mà họ tạo ra. Để thực hiện được lợi nhuận thì nhà tư bản phải bán được nhiều sản phẩm song chính việc hạn chế tiền công của công nhân đã hạn chế khả năng tiêu thụ hàng hóa của tư bản, đó chính là mâu thuẫn trong xã hội tư bản dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Thực tế lịch sử của chủ nghĩa tư bản đã chứng minh những cuộc khủng hoảng kinh tế luôn gắn liền với phương thức sản xuất này. “Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008-2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới”[4].
Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản không những không bền vững về kinh tế mà còn không bền vững về xã hội. Do đặc trưng của phương thức sản xuất này là chạy theo lợi nhuận của một số cá nhân nên người lao động vẫn là đối tượng bị bóc lột của quá trình sản xuất: “Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu – nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc”[5]. Mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản còn không bền vững về môi trường sinh thái: “Cùng với khủng hoảng kinh tế – tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,… đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại”[6]. Để thu lợi nhuận nhiều thì phải kích thích xã hội tiêu dùng, hưởng thụ, phải tiêu dùng nhiều và phải sản xuất nhiều hơn so với khả năng thực tế của người nghèo so với nhu cầu của người giàu. Càng sản xuất nhiều càng khai thác, bóc lột thiên nhiên, tài nguyên nhiều đã dẫn tới tình trạng suy thoái môi trường trầm trọng mà loài người đang phải trả giá.
Tống Bí thư cũng đã khẳng định hệ thống chính trị của các nước tư bản chỉ phục vụ cho lợi ích của một thiểu số người đang nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội chứ không phải bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân lao động như họ luôn rêu rao: “Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản”[7].
Chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại của nó. Ảnh: Internet.
Chính trong khủng hoảng kinh tế, nhân dân lao động càng nhận thấy rõ hơn những bất công xã hội trong chủ nghĩa tư bản. Trong cuộc khủng hoảng 2008, những tập đoàn tư bản và những ngân hàng thương mại, những người trực tiếp gây ra tình trạng tồi tệ của nền kinh tế và gián tiếp bần cùng hóa người lao động thì không phải trả giá cho những việc họ đã làm. Chỉ có người lao động đang trực tiếp nếm trải những khó khăn của nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng này làm cho hàng triệu người mất nhà cửa khi họ không còn đủ khả năng trả các khoản nợ cho ngân hàng. Cuộc khủng hoảng này làm cho đời sống nhân dân vô vùng khó khăn, đáng lẽ ra Chính phủ phải có những chính sách hỗ trợ người lao động thì Chính phủ các nước tư bản lại rót tiền vào cứu trợ cho các ngân hàng, những thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng này. Chính phủ Mỹ đã chi khoảng tiền 1500 tỉ USD, Chính phủ Anh tung ra gói cứu trợ 790 tỉ USD, Đức thông qua gói cứu trợ 667 tỉ uSD, Pháp 500 tỉ USD[8]. Khi rót một số tiền lớn làm cho tỷ lệ nợ công ở các nước này tăng lên, tỷ lệ nợ công trên GDP ở các nước phát triển đã tăng từ 44% năm 2007 lên 71% năm 2009[9], vì vậy họ phải thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng”, cắt giảm chi tiêu mà hậu quả đè lên vai người dân. Và quyết định cắt giảm đầu tiên bao giờ cũng đánh vào những người về hưu như ở Anh và Pháp, vào những người làm công ăn lương nhà nước, cắt giảm các chính sách an sinh xã hội của người lao động. Thực tế này một lần nữa khẳng định hệ thống chính trị ở các nước tư bản không phải là quyền lực của nhân dân thực sự mà do các tập đoàn tư bản chi phối nên hoạt động của nó là để phục vụ cho các tập đoàn này, thực tế đã phơi bày đầy đủ bản chất của nền dân chủ tư sản: “Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất”[10].
Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ là sự khẳng định đanh thép cho sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc Việt Nam mà còn giúp chúng ta nhìn một cách sâu sắc, thấu đáo về bản chất của chủ nghĩa tư bản ngày nay, đập tan những luận điệu tô hồng, ca ngợi một chiều chế độ này để cổ xúy đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Nhận xét
Đăng nhận xét