Bài cuối: Minh bạch thông tin là nền tảng tạo dựng niềm tin
Bài cuối: Minh bạch thông tin là nền tảng tạo dựng niềm tin
“Chính phủ Việt Nam đã rất minh bạch với công chúng trong suốt cuộc khủng hoảng dịch COVID-19. Báo chí và truyền thông Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đồng thuận xã hội, xây dựng niềm tin của người dân nhằm chung tay phòng, chống đại dịch thành công”. Nhận định trên của tạp chí Foreign Policy về vai trò của báo chí và truyền thông Việt Nam trong cuộc chiến chống đại dịch có thể coi là minh chứng rõ ràng nhất về những nỗ lực nhằm đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin ở Việt Nam.
Bài 2: Cần chấm dứt những luận điệu ‘đổi trắng thay đen’
Bài 1: Sự ngụy tạo không thể phá hoại bức tranh toàn cảnh
Truyền thông quốc tế khi đề cập tới những “bí quyết” giúp Việt Nam kiểm soát hiệu quả các đợt bùng phát dịch COVID-19 đã nhiều lần nhắc tới yếu tố “thông tin minh bạch, rõ ràng”. Nhiều quan chức, chuyên gia nước ngoài cũng đánh giá cao Chính phủ Việt Nam tận dụng hiệu quả việc có hơn 70% dân số sử dụng Internet để cập nhật tình hình dịch bệnh cũng như hướng dẫn người dân tuân thủ các biện pháp phòng chống dịch. Nhà báo David Hutt chuyên về chính trị Đông Nam Á đánh giá, khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất minh bạch, cởi mở trong việc chia sẻ, cập nhật dữ liệu về tình hình COVID-19. Đó là một trong những lý do khiến người dân Việt Nam đặt niềm tin vào các biện pháp chống dịch của chính phủ.
Tương tự, việc truyền hình trực tiếp các cuộc chất vấn, trả lời chất vấn và tranh luận tại các kỳ họp Quốc hội về những vấn đề “nóng” của đất nước ngày càng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cử tri cả nước. Điều đó giúp thông tin rộng rãi hơn, đảm bảo các hoạt động của Quốc hội ngày càng công khai, minh bạch hơn, gần gũi với cử tri và nhân dân, qua đó tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân và cử tri giám sát các hoạt động của Quốc hội.
Hay việc các cơ quan báo chí thông tin kịp thời, công khai, minh bạch về các vụ xử lý những quan chức cấp cao vi phạm kỷ luật đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào các nỗ lực chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta.
Vậy mà, một số tổ chức như “Freedom House” và tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) cùng một số thế lực thù địch luôn tìm cách xuyên tạc, chỉ trích tình hình tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam. Trong báo cáo công bố tháng 5 vừa qua, các tổ chức này xếp Việt Nam vào cái gọi là “nhóm các quốc gia không có tự do Internet và không có tự do báo chí”. Đây không phải là năm đầu tiên “Freedom House” và RSF đưa ra những nhận định chủ quan, phiến diện và không chính xác như vậy về Việt Nam.
Những thế lực thù địch dường như cố tình quên rằng việc đảm bảo mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong khuôn khổ quy định của pháp luật là chính sách nhất quán của Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được xem là quyền hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10). Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin,… ” (Điều 25). Cùng với Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, khung pháp lý của Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tiếp cận thông tin cơ bản đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người. Cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có những quy định nhằm hạn chế và ngăn chặn những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận xâm hại lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Luật An ninh mạng năm 2018 được thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2019 là nỗ lực của Việt Nam nhằm đảm bảo sự an toàn và trật tự của toàn xã hội trên không gian mạng, qua đó bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet của người dân.
Báo chí Việt Nam luôn là kênh thông tin, phản biện xã hội rộng rãi, công khai và có hiệu quả đối với các cấp chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân. Bên cạnh nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông tin mọi mặt hoạt động của xã hội đến với nhân dân, báo chí còn là diễn đàn của nhân dân để nhân dân bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, chính kiến, tham gia phản biện, đề xuất ý kiến về những chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh, tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Nhân dân được trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, hoạch định chính sách, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước thông qua việc thảo luận, góp ý và bày tỏ ý kiến, quan điểm ở mọi phương diện, lĩnh vực trên báo chí.
Tính đến 4/2022, cả nước có 816 cơ quan báo chí, trong đó 115 báo thực hiện 2 loại hình (in và điện tử): 116 tạp chí thực hiện 2 loại hình; 29 báo và tạp chí điện tử chỉ có loại hình điện tử; 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh – truyền hình; khoảng 41.600 nhân sự đang tham gia hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Cả nước có 17.161 người được cấp thẻ nhà báo 2021 – 2025 (tính đến 15/8/2021)… Điều đó cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của báo chí tại Việt Nam trong những năm gần đây.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, Internet và mạng xã hội trở thành công cụ phổ biến để mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm, truyền bá thông tin, thể hiện quyền tự do ngôn luận. Theo báo cáo toàn cảnh Digital năm 2022 do tổ chức We Are Social và Hootsuite thực hiện, tính đến tháng 1/2022, số người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam là 72,1 triệu người, chiếm 73,2% dân số, trong đó các mạng xã hội Facebook, Zalo, Youtube, Instagram, Tiktok,… được người dân sử dụng rộng rãi … Từ năm 2021 đến 2022, số người dùng Internet ở Việt Nam đã tăng 3,4 triệu, cho thấy bước mở rộng và phát triển đáng kể phạm vi sử dụng Internet ở nước ta. Hiện Việt Nam là quốc gia có số người dùng Internet cao thứ 12 trên thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia và vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Việt Nam cũng đang đẩy mạnh mục tiêu “Chuyển đổi số quốc gia”, hướng tới mỗi người dân có một điện thoại thông minh; mỗi hộ gia đình có một đường Internet cáp quang tốc độ cao… Đó là những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam nhằm tôn trọng quyền được tiếp cận Internet của tất cả mọi người. Qua Internet, người dân Việt Nam cũng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới, như: AFP, AP, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times, New York Times….
Những con số trên là bức tranh sinh động cho thấy quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tại Việt Nam là thực tế khách quan không thể phủ nhận và bác bỏ.
Tuy nhiên, Freedom House, RSF và một số tổ chức thù địch, phản động thường xuyên đưa ra những cáo buộc vô căn cứ về việc Việt Nam “đàn áp” tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do bày tỏ chính kiến của người dân. Thực tế cho thấy Luật pháp Việt Nam chỉ trừng trị những đối tượng lợi dụng các quyền tự do dân chủ, trong đó có quyền tự do Internet, tự do ngôn luận, để thực hiện các hành vi xuyên tạc, chống phá, bôi nhọ, lừa đảo, phát tán tin giả, lấy cắp thông tin… gây tổn hại cho lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và cá nhân, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Không ít đối tượng lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do mạng xã hội để đăng tải nhiều clip có nội dung chống phá Đảng và Nhà nước, xuyên tạc tình hình chính trị nội bộ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo cấp cao, kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự. Thủ đoạn chủ yếu là tạo lập, sử dụng các trang mạng có máy chủ ở nước ngoài để phát tán thông tin xấu độc, đặc biệt là vào thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng của đất nước. Riêng trong năm 2021, hàng chục nghìn thông tin xấu, độc trên các mạng xã hội đã được chặn và gỡ bỏ. Mới đây nhất, ngày 9/10, các lực lượng chức năng đã phối hợp kịp thời xử lý đối tượng sử dụng tài khoản cá nhân trên mạng xã hội Facebook đăng tải, bình luận thông tin thất thiệt gây hoang mang dư luận, tạo tâm lý bất an về việc người dân đồng loạt rút tiền tại các ngân hàng, từ đó tác động xấu đến hoạt động của các ngân hàng và tình hình an ninh, trật tự xã hội.
Việc Việt Nam áp dụng Luật An ninh mạng để xử lý các hành vi vi phạm là nhằm bảo vệ một không gian mạng lành mạnh cho người sử dụng ở Việt Nam. Rõ ràng, khi đưa ra những đánh giá về tự do Internet tại Việt Nam, Freedom House, RSF và các thế lực thù địch đã cố tình bỏ qua một thực tế là không chỉ Việt Nam ban hành Luật An ninh mạng mà trên thế giới đã có hơn 180 quốc gia đã ban hành luật này hoặc quy định các điều luật về an ninh mạng trong bộ luật bảo đảm an ninh quốc gia. Nhiều quốc gia như Mỹ, Đức, Pháp, Hàn Quốc, Singapore,… đã có điều khoản xử lý nghiêm khắc những hành vi vi phạm trên không gian mạng.
Có thể thấy các báo cáo hay bảng xếp hạng hàng năm của Freedom House, RSF cũng như một số tổ chức nhân quyền và thế lực thù địch khác luôn mang tính chủ quan, thể hiện góc nhìn phiến diện, định kiến, chủ yếu dựa trên những thông tin lượm lặt từ các lực lượng chống phá mà không dựa trên ý kiến của chính người dân Việt Nam, không phản ánh đúng tình hình thực tiễn về tự do báo chí, tự do Internet của Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet của người dân. Việc Freedom House và RSF cũng như một số thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên tạc sự thật càng cho thấy thái độ thiếu thiện chí đối với Việt Nam. Sự thật sinh động về những kết quả mà Việt Nam đạt được trong việc bảo đảm quyền con người, trong đó có tự do báo chí, tự do Internet, là câu trả lời đanh thép.
(Nguồn TTXVN)
Nhận xét
Đăng nhận xét