Đài đ.ịch RFA lại giả dối, ngụy biện và xuyên tạc

Sau khi ý kiến đề xuất đặt tên hai giáo sĩ Francisco de Pina và Alexander de Rhodes cho hai con đường ở thành phố Đà Nẵng, trên RFA có đăng bài: “Không có chữ quốc ngữ thì không có Đảng Cộng sản Việt Nam”,
Với lập luận cơ bản rằng: “Nếu cậu thanh niên Nguyễn Sinh Cung không biết chữ quốc ngữ thì không thể học trường Tây và càng không thể học được tiếng Pháp, chắc chắn lựa chọn tìm đường cứu nước phải là Trung Quốc hoặc một quốc gia phương Đông nào đó để hoạt động.
Và trên khía cạnh này, ngay cả Trung Hoa, nếu không có các giáo sĩ phương Tây dạy chữ Tây thì Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch hay Mao Trạch Đông cũng chẳng có hi vọng biết Cộng sản là gì. Bởi chủ nghĩa Cộng sản sinh ra ở phương Tây, trong lòng các quốc gia thuộc hệ ngôn ngữ La Tinh. Và không ai ngoài các giáo sĩ phương Tây, dù muốn hay không muốn thì họ vẫn một phần lớn gián tiếp tạo ra chế độ Cộng sản ở phương Đông.”
Lập luận trên mới xem qua thì cừ tưởng là hợp lý, nhưng thực chất lại quá sai lầm, giả dối và ngụy biện.
Ngụy biện đầu tiên là ở việc áp đặt chuỗi quan hệ nguyên nhân – kết quả, khi cho rằng sự kiện xảy ra sau (Đảng Cộng sản ra đời) là kết quả của điều xảy ra trước đó (dùng chữ quốc ngữ). Trên thực tế, việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời hoàn toàn không liên quan gì đến chữ quốc ngữ.
Đài địch RFA lại giả dối, ngụy biện và xuyên tạc
Cần phải nhớ rằng, thực dân Pháp mở trường dạy tiếng Pháp ở Việt Nam và yêu cầu sử dụng tiếng Pháp trong giao dịch, trao đổi chính là để phục vụ cho mục đích xóa bỏ tiếng Việt, âm mưu dùng tiếng Pháp thay thế cho tiếng Việt tại Việt Nam.
Tuy nhiên, tiếng nói của người Việt vẫn còn tồn tại, và do đó, để cắt đứt dòng chảy văn hóa truyền thống của Việt Nam, đề đốc người Pháp đã quyết định sử dụng thứ ngôn ngữ ngoại lai do các giáo sĩ Pháp tạo ra là “chữ La Tinh ghi tiếng An Nam” thay thế cho dạy tiếng Pháp.
Nếu trước đó, hệ chữ này chỉ được sử dụng trong những cộng đồng giáo dân nhỏ lẻ, thì sau những sắc lệnh sử dụng chữ quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam do Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn ở Nam Kỳ (nghị định ngày 22/2/1869) và do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký cũng đề ra cái mốc hẹn trong bốn năm (tức năm 1882), chữ La Tinh ghi âm tiếng An Nam đã phủ sóng trên toàn xứ Việt Nam thuộc địa Pháp lúc bấy giờ (nghị định ngày 6/4/1878).
Tất cả những điều này thể hiện một điều duy nhất: Kể từ khi Pháp x.âm l.ược, việc học tiếng Pháp và học viết “chữ La Tinh ghi tiếng An Nam” là bắt buộc, và thực dân Pháp dùng quyền lực của mình để thực thi nó trên xứ thuộc địa.
Như vậy cũng tức là, Nguyễn Sinh Cung và các nhà hoạt động cùng thời kỳ biết tiếng Pháp và biết “chữ La Tinh ghi tiếng An Nam” không phải là do yêu thích nên học hỏi; mà là do bị thực dân Pháp ép phải học. Cũng tức là, hoàn toàn không có một sự tự nguyện nào trong việc học chữ La Tinh ghi tiếng An Anm và tiếng Pháp cả.
Tất nhiên, so với chữ Nôm, cách viết và học “chữ La Tinh ghi tiếng An Nam” dễ dàng, dễ nhớ và dễ dạy hơn. Đây chính là ưu điểm của hệ chữ này. Còn những việc như học trường Tây, đọc tiếng Pháp, biết chữ Latinh ghi tiếng Việt, biết đến các tư tưởng tân kỳ… thì tất cả đều là hệ quả từ việc thực dân Pháp sang x.âm l.ược và bắt buộc người dân Việt Nam tuân theo. Hệ quả ấy, tất nhiên, có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Nhưng RFA hoàn toàn che giấu đi mặt tiêu cực (khiến người Việt hoàn toàn mất kết nối với các di sản văn hóa truyền thống đã có gần 10 thế kỷ), và đắp thêm cho mặt tích cực những ngụy biện cực kỳ thô sơ:
“Bởi nếu không có chữ quốc ngữ thì Nguyễn Tất Thành có biết viết chữ Việt? Có nghĩ đến chuyện sang Pháp để tìm đường cứu nước? Và khi gặp các nhà hoạt động tại Pháp, các vị trong nhóm Ái Quốc đã dùng chữ gì, hệ ngôn ngữ nào để viết luận cương, để đánh động quốc tế Cộng sản?
Hơn nữa, nếu chỉ biết chữ Tàu thì liệu các vị ái quốc trên có cơ hội nào để tiếp cận các tư tưởng phương Tây để nói đến chuyện Canh Tân, Tân Dân, Ái Quốc… và khi viết Đường Kách Mệnh, Hồ Chí Minh đã viết bằng chữ gì? Tiếng gì nếu không phải là chữ quốc ngữ?!
Đó là chưa muốn nói đến hàng triệu các văn bản sau này của người Cộng sản, cũng như hàng trăm văn kiện liên quan đến các hiệp ước, hiệp định, tạm ước, công hàm… Nếu các vị chỉ rành chữ Hán mà không biết gì đến tiếng Pháp và chữ quốc ngữ thì câu chuyện sẽ đi đến đâu? Hay chỉ quanh quẩn trong ao nhà, rồi cuối cùng cũng lụi tàn như những cuộc nổi dậy của nông dân chân lấm tay bùn?”
Theo cách lập luận này của RFA, có lẽ ai biết chữ cũng thành nhà hoạt động được! RFA hoàn toàn bỏ qua những vấn đề về tư tưởng cá nhân, tri thức, kinh nghiệm của Nguyễn Tất Thành và các nhà hoạt động khác thời bấy giờ.
Theo logic của RFA, thì chính là nhờ Pháp đến x.âm l.ược, đày đọa, bóc lột người dân Việt Nam, lại nhờ các giáo sĩ mà người Việt có chữ, rồi nhờ có hệ chữ này nên Nguyễn Tất Thành mới có thể đọc luận cương, viết cương lĩnh, tham gia Quốc tế cộng sản, và cứu nước… RFA lờ đi phát ngôn thật sự của Nguyễn Tất Thành: “Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp.
Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Lý do Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước chính là vì muốn biết tại sao một quốc gia đề cao tự do, bình đẳng, bác ái lại đi x.âm l.ược nước khác như vậy. Tư duy này, chẳng có chữ quốc ngữ nào “dạy” được!
Nhìn chung, cách lập luận của RFA là nhấn mạnh vào việc các nhà hoạt động Việt Nam tự nguyện học chữ và dùng chữ này để đấu tranh; lờ đi việc thực dân Pháp ép người Việt dùng tiếng Pháp để giao tiếp. Bằng cách này, RFA ngụy biện về việc chữ quốc ngữ đã tạo ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhưng, điều vô lý nằm ở chỗ làm sao một hệ chữ, một thứ công cụ ghi chép, lưu trữ lại có thể tự thành lập được một đảng chính trị ?? Một điều vô lý khác nữa, nằm ở chỗ có bao nhiêu người học chữ (thậm chí là cả các phóng viên RFA), mà lại chỉ có một số ít người chọn con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và chọn thành lập, đi theo Đảng Cộng sản Việt Nam?
Câu hỏi này chắc hẳn các phóng viên RFA sẽ không trả lời được.
Một bằng chứng đã trở thành chân lý chính là Nghị quyết 24C/18.65 tại Khóa họp Đại Hội đồng UNESCO lần thứ 24 ở Paris, từ ngày 20 tháng 10 đến 20 tháng 11 năm 1987, đã thông qua. Nghị quyết đã khẳng định:
“ Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc… “.
Như vậy, rõ ràng phải nhận thấy, vấn đề vốn không nằm ở hệ chữ như RFA khẳng định, mà nằm ở con người. Suy cho cùng, con người mới là yếu tố quyết định trong những sự kiện, biến cố lịch sử. Còn chữ viết thì đơn giản chỉ là phương tiện mà thôi. Chữ viết có thể thay thế, chứ con người và tư duy thì không!
Việt Phúc Khang

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này