Gửi những kẻ phản quốc, ngụy sử khi nói về Đại tướng
Lê Đức Anh
1.
Tại sao họ lại xoáy vào sự kiện Gạc Ma, gọi đây là cuộc chiến Gạc Ma. Tại sao
họ lại xoáy vào Đại tướng Lê Đức Anh với lệnh “không được nổ súng”?
Năm
1975 ta giải phóng 5 đảo nổi ở Trường Sa do quân ngụy Sài Gòn đóng giữ, năm
1978 ta đóng tiếp 4 đảo nổi còn lại tổng cộng là 9 đảo nổi và cũng hết các đảo
nổi.
Trước
âm mưu của Trung Quốc và một số nước xâm chiếm đảo chìm, còn gọi là bãi đá
ngầm, từ năm 1986 chúng ta đã triển khai các phương án đóng giữ đảo chìm. Khi
Trung Quốc đưa lực lượng hải quân mạnh, số lượng tàu chiến đông xuống xâm chiếm
các đảo chìm, Hải quân Việt Nam với khả năng rất hạn chế, chỉ dùng tàu vận tải,
tàu đổ bộ, các biện pháp công trình và các lực lượng ra đóng chốt giữ đảo. Một
chiến dịch CQ88 được mở ra, CQ là chủ quyền. Dưới sự lãnh đạo của BCT, QUTW, sự
chỉ đạo của Đại tướng Lê Đức Anh – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Quân chủng Hải quân
đã huy động toàn bộ khả năng của mình để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên
quần đảo Trường Sa. Kết quả ta giữ được 12 đảo chìm, Trung Quốc chiếm mất 7 đảo
chìm, về tương quan lực lượng, chúng ta giữ hơn họ 5 đảo sao bọn phản động
không nói gì?
Trong
sự kiện 14/3/1988 họ quyết tâm chiếm 3 đảo chìm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, trong
khi họ huy động các tàu chiến lớn, vô cùng hung hăng, bắn chìm tàu HQ 604 ở Gạc
Ma, bắn cháy tàu HQ 505 ở Cô Lin, bắn chìm tàu HQ 605 ở Len Đao, họ chỉ chiếm
được Gạc Ma, chúng ta vẫn giữ được Cô Lin và Len Đao, ta hơn Trung Quốc chứ,
sao chúng không nói?
Có
nhiều người tranh luận với tôi là tại sao không giữ được Gạc Ma, tôi nói các
ông có nhờ Mỹ giúp cũng không ngăn được Trung Quốc chiếm Gạc Ma.
Họ
đưa lên sự kiện Gạc Ma nhằm xóa nhòa thành tích mà Hải quân nhân dân Việt Nam
đã giành được trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc nói chung
và quần đảo Trường Sa nói riêng.
Họ
đưa ra sự kiện Gạc Ma là một cuộc hải chiến, Việt Nam thua, là một âm mưu xấu
xa. Không có cuộc hải chiến, chúng ta không dùng tàu chiến, chúng ta chủ trương
đóng giữ đảo một cách hòa bình, không khiêu khích, không gây chiến, không mắc
mưu đối phương, không nổ súng trước, nhưng quyết tâm bằng mọi biện pháp bảo vệ
chủ quyền của Việt Nam.
Qua
tài liệu giải mã của CIA về sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc đổ vấy cho Việt Nam là
nổ súng trước, họ đã đổi trắng thay đen, sao những người viết sách không đọc mà
đưa vào, cứ bịa ra lệnh “Không được nổ súng”.
Dưới
sự chỉ đạo sáng suốt của Đại tướng Lê Đức Anh, sự chỉ huy trực tiếp của Phó đô
đốc – Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương chúng ta giữ được Cô Lin và Len Đao, cùng
với 10 đảo chìm và 9 đảo nổi nữa, không để Trung Quốc tạo cớ lấn tới. Đây là
thành công trong điều kiện tương quan lực lượng hai bên khi ấy bất lợi cho Việt
Nam.
Sau
sự kiện Gạc Ma 14/3/1988, nhân dịp kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống của Hải
quân nhân dân Việt Nam, trong một chuyến đi kiểm tra quần đảo Trường Sa năm
1988, Đại tướng Lê Đức Anh là Bộ trưởng Bộ quốc phòng đầu tiên ra trường Sa đã
dự lễ kỷ niệm vào ngày 7/5/1988 tại đảo Trường Sa, ông đã đọc lời thề: Chúng ta
xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã
hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ
mai sau “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng
được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ
quốc thân yêu của chúng ta”.
Các
thế lực thù địch đang bám vào quyển sách “Gạc Ma – vòng tròn bất tử” để xuyên
tạc nói là Đảng Cộng sản Việt Nam bán Trường Sa cho Trung Quốc. Mưu đồ vô cùng
xấu xa. Chúng đang kích động hận thù giữa nhân dân hai nước, với chiêu bài phò
Mỹ bài Trung.
Thực
chất chúng muốn hạ uy tín của Đảng ta, quân đội ta, làm mất niềm tin của nhân
dân, nhất là thế hệ trẻ vào công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
2.
Chúng nhằm vào Đại tướng Lê Đức Anh, nhưng lại đưa ra các dẫn chứng ngu si.
Tại
cuộc họp Bộ chính trị, ông Nguyễn Cơ Thạch đập bàn..
BCT là cái chợ, là đám hẩu lốn hay sao mà họp cá nhân dám đập bàn hỏi một người khác.
BCT là cái chợ, là đám hẩu lốn hay sao mà họp cá nhân dám đập bàn hỏi một người khác.
Tại
sao ông Lê Đức Anh nhận là “tôi ra lệnh không được nổ súng” mà Bộ chính trị lại
giới thiệu để BCHTW giới thiệu tiếp theo là Quốc hội bầu ông làm Chủ tịch nước
vào năm 1992.
Hỡi các những kẻ hận thù, phản động, thoái hóa biến chất, cơ hội, bất mãn hãy trả lời câu hỏi này đi.
Hỡi các những kẻ hận thù, phản động, thoái hóa biến chất, cơ hội, bất mãn hãy trả lời câu hỏi này đi.
Chỉ
có lệnh “không được nổ súng trước”, chỉ có bản lĩnh, tài năng chỉ đạo không cho
Trung Quốc lấn tới, giữ được Trường Sa như hiện nay, Đảng, Nhân dân, Quân đội
mới tín nhiệm bầu Đại tướng Lê Đức Anh làm Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam một Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
lên làm Chủ tịch nước.
Đại
tướng Lê Đức Anh, người chỉ huy cuối cùng còn lại trong chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử. Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Những thế lực thù địch không bao
giờ hết cay cú, bọn phản động, bọn cơ hội, thoái hóa biến chất, bọn bất mãn
đang hùa nhau đả kích ông hạ uy tín những người Cộng sản kiên trung đã đánh cho
Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào để chúng dựng ngọn cờ ba que hòng mưu đồ cuộc cách
mạng màu qua diễn biến hòa bình.
3.
Đại tướng Phạm Văn Trà nói về Đại tướng Lê Đức Anh.
Trong
một lần về thăm Bảo Tàng Đồng Quê, Đại tướng Phạm Văn Trà kể cho tôi nghe rất
nhiều về Đại tướng Lê Đức Anh với sự ca ngợi và kính trọng.
Sau
chiến dịch Mậu Thân năm 1968, địch phản công càn quét, tình hình chiến trường
nói chung, Nam Bộ nói riêng vô cùng khó khăn, không bảo đảm được các mặt, trên
chỉ đạo tạm thời giải tán các đơn vị chủ lực. Đồng chí Lê Đức Anh – TL QK9
nghiên cứu quyết định không giải tán, trong đó có Trung đoàn do đồng chí Phạm
Văn Trà làm Trung đoàn trưởng, chia nhỏ ra ẩn vào dân, vẫn giữ được lực lượng
sau nhanh chóng củng cố lại. Với quyết tâm như vậy, năm 1974 Đại tá Lê Đức Anh
được thăng quân hàm vượt cấp lên Trung tướng.
Khi
chúng ta theo Liên Xô, thực hiện chế độ bỏ đảng ủy, bỏ chính ủy, chính trị viên
mà chỉ có Hội đồng chính trị, Đại diện của Bộ Quốc phòng sang Campuchia truyền
đạt với đồng chí Lê Đức Anh để triển khai. Đồng chí yêu cầu phái viên về ngay,
mặt trận Campuchia không thực hiện, nếu thực hiện như vậy quân đội làm sao
chiến đấu được. Đồng chí đã đúng. Sau đó đồng chí được bổ nhiệm Tổng Tham mưu
trưởng quân đội nhân dân Việt Nam, rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và năm 1992 được
bầu làm Chủ tịch Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Một
con người như thế là mục tiêu tấn công nhằm hạ uy tín, danh dự của các thế lực
thù địch, phản động, thoái hóa biến chất, cơ hội, bất mãn là một thực tế.
Hãy
đấu tranh vạch mặt chúng, bác bỏ những luận điệu vu khống, xuyên tạc xấu xa bỉ
ổi.
4.
ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH – VỊ CHỈ HUY TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH CÒN LẠI
Ngày
14-4-1975, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng
Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ Tư lệnh chiến dịch ngày ấy gồm 8
người, nay chỉ còn lại đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, lúc đó ông
là Trung tướng, Phó Tư lệnh. Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tư lệnh chiến dịch),
Chính ủy Phạm Hùng, các Phó Tư lệnh gồm: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng
Lê Trọng Tấn, Trung tướng Đinh Đức Thiện; Phó Chính ủy là Trung tướng Lê Quang
Hòa và quyền Tham mưu trưởng là Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền đều đã mất.
Lực
lượng trực tiếp tham gia chiến dịch của ta gồm 5 quân đoàn có trên dưới 15 sư
đoàn. Các quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 có đủ các binh chủng hợp thành, cùng
các lực lượng bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ và lực lượng nổi dậy của quần
chúng ở nông thôn cũng như thành thị. Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh xác
định phải đánh nhanh, quyết liệt, không cho địch co cụm về Sài Gòn; ngược lại,
không để cho quân địch ở Sài Gòn chạy về miền Tây. Các cánh quân phải tổ chức
các mũi thọc sâu, mũi đánh vòng ngoài kết hợp giữa chủ lực với bộ đội địa
phương và kết hợp giữa bộ đội với quần chúng nhân dân, đột phá liên tục, dồn
dập cho đến toàn thắng.
Trong
Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trung tướng Lê Đức Anh còn được giao đảm trách chỉ huy
và lãnh đạo cánh quân tiến công trên hướng Tây – Tây Nam Sài Gòn (đoàn 232),
một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời điểm
đó, Bộ Chỉ huy Miền (B2) nhận định hướng Tây – Tây Nam là nơi khó nhất vì sình
lầy, nhưng đây là một hướng tiến công rất quan trọng vì nhất định ta phải nhanh
chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ số 4 để quân địch ở Sài Gòn không
thể co cụm xuống cố thủ ở Tây Đô (Cần Thơ).
Đoàn
232 gồm các Sư đoàn 5 và 9; bốn trung đoàn độc lập, một trung đoàn đặc công có
3 nhiệm vụ: chia cắt hai lực lượng Sài Gòn và miền Đông với lực lượng ở đồng
bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và tấn công Tổng nha cảnh sát, sau
đó hợp điểm tại Dinh Độc Lập.
Đúng
17 giờ ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Các đơn vị hướng Tây –
Tây Nam tiến công. Sư đoàn 5 cắt đoạn Bến Lức tới Tân An. Sư đoàn 8 cắt lộ 4 từ
Mỹ Tho tới bờ sông Tiền. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực An Ninh – Lộc Giang, vượt
sông Vàm Cỏ. Sư đoàn 9 vượt sông Vàm Cỏ tập kết tại Cầu Bông, Mỹ Thạnh, Đức Hòa.
Ngày
30-4, cánh quân hướng Tây – Tây Nam đã đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh
cảnh sát quốc gia, Tổng nha cảnh sát, cảnh sát đô thành, các quận Tân Bình,
Bình Chánh, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.
Đúng
11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập,
từ nay đất nước thống nhất, non sông liền một dải.
Đối
với dân tộc ta, đây là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, kết thúc vẻ vang quá
trình 30 năm kháng chiến, cứu nước, giải phóng miền Nam, góp phần vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. “Thắng lợi trọn vẹn của chúng ta có
nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân to lớn nhất, cơ bản nhất, gốc rễ nhất là
tư tưởng “Nhân ái”. Tư tưởng “nhân nghĩa” của thời đại Hồ Chí Minh là bắt nguồn
truyền thống chí nhân chí nghĩa của dân tộc, như Nguyễn Trãi từng viết trong
“Đại Cáo Bình Ngô”: “Lấy chính nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay
cường bạo”. Tư tưởng nhân nghĩa là một yếu tố cơ bản trong nền văn hóa của dân
tộc, nó chuyển hóa thành lời, trong ý nghĩ thành tư tưởng chiến lược; tư tưởng
này đã kết tinh trong thời đại của chúng ta là ở Chủ tịch Hồ Chí Minh” (trích
hồi ký của Đại tướng Lê Đức Anh).
Những
lần vượt qua hiểm nguy
Trong
cuộc đời tham gia hoạt động cách mạng của mình, cũng như lúc trong cuộc sống
đời thường, nhiều lần Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã vượt qua
những cơn hiểm nghèo một cách kỳ diệu. Lần thứ nhất ông đã thoát chết là ngay
trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, vào ngày 28-4-1975. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh,
ông làm việc trong cái chòi nhỏ sát mép sông ở Sở Chỉ huy của cánh quân hướng
Tây – Tây Nam ngay bên bờ sông Vàm Cỏ thuộc huyện Đức Hòa (Long An).
Buổi
sáng hôm đó vô ăn cơm, chỗ ăn là cái nhà họp của địa phương làm nửa chìm nửa
nổi. Trong hồi ký của mình, Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh kể:
“Chính ủy Hai Tưởng đặt vị trí ở đây; vừa ăn xong, tự nhiên anh Tưởng bảo tôi:
“Anh hãy nán lại, nằm trên võng của tôi mà nghỉ, nghỉ mươi phút rồi hẵng ra
đó!” Tôi nghe anh. Vừa ngả lưng thì ở ngoài chòi của tôi một quả bom từ máy bay
địch ném trúng, cái chòi bay mất, cậu lái xe hy sinh, cậu Nguyễn Hồng Thái,
chiến sĩ bảo vệ bị thương. Nếu hôm đó ăn xong tôi ra liền thì nhất định “cái
chuyện thường” đã xảy ra với tôi. Và hôm nay chẳng còn ngồi để mà viết ra những
dòng chữ này! Chiến tranh nó có chừa ai, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên nhiều
khi không thể mang “tính quy luật” ra mà giải thích!”. Chiến tranh là thử thách
cao nhất, nghiệt ngã nhất đối với con người. Nhiều lúc bom đạn ác liệt quá, ông
vẫn từng nói vui với anh em: “Bom đạn đầy trời thế này, chết là chuyện thường,
còn sống thì mới kỳ!”.
Lần
thứ hai vào năm 1996 khi đang là Chủ tịch nước, ông bị tai biến rất nặng. Các
cơ quan có thẩm quyền khi đó đã chuẩn bị các việc cần thiết cho việc ông qua
đời và thông báo cho gia đình. Thế nhưng, bằng sức mạnh phi thường của bản
thân, ông đã vượt qua cơn bạo bệnh một cách thần kỳ và trở lại làm việc bình
thường trên cương vị Chủ tịch nước.
Lần
thứ ba là vào đầu năm 2018 sức khỏe của ông cũng suy giảm nghiêm trọng, các cơ
quan báo chí đã chuẩn bị bài để viết về cuộc đời ông… Thế nhưng, một lần nữa
ông đã vượt qua cơn nguy kịch một cách thần kỳ, ngoài mọi tiên liệu của các bác
sĩ. Nhiều người phải thốt lên thán phục: “Ông đúng là tướng đánh trận, chỉ có
tướng trận mới có sức sống kỳ diệu, sức đề kháng phi thường như thế!”.
Luôn
trở về trong chiến thắng
Đại
tướng Lê Đức Anh thực sự là một tướng trận. Ông là một trong số ít người đã
trải qua các cuộc chiến tranh và xung đột từ năm 1945 – 1989. Ông có mặt ở
những điểm nóng nhất và trở về trong chiến thắng: tham gia 9 năm kháng chiến
chống Pháp, đi chiến trường miền Nam 11 năm (1964 – 1975), chỉ huy chiến trường
Campuchia 7 năm (1979 – 1986), ổn định tình hình biên giới phía Bắc (1986 –
1989).
Ông
trực tiếp tham gia những trận đánh, những sự kiện mang tính bước ngoặt của
chiến tranh: Mậu Thân 1968, chống lấn chiếm 1973, Phước Long 1974, chiến dịch
Hồ Chí Minh, chiến dịch giải phóng Campuchia; chấm dứt xung đột biên giới với
Trung Quốc; bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc: Ngày 6-11-1987 Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh số 1679/ML-QP về việc bảo vệ quần đảo Trường
Sa; ngày 29-3-1989 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng
giữ, bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, bãi đá ngầm (khu DK1).
Chiến
dịch Hồ Chí Minh trong mùa đại thắng 1975 đã giải phóng Sài Gòn, kết thúc tròn
vẹn cuộc chiến tranh. Cứ đến ngày 30 tháng 4 mỗi năm, cả đất nước ta lại long
trọng kỷ niệm ngày đất nước thống nhất. Đây là dịp để chúng ta cùng tưởng nhớ,
trân trọng những nhân vật lịch sử, qua những con người cụ thể, nhân vật cụ thể,
trong đó có Đại tướng Lê Đức Anh, người đã cùng viết nên bài học vẻ vang của
lịch sử dân tộc.
Sáng
03/8/2018
Thiếu tướng Hoàng Kiền
Nhận xét
Đăng nhận xét